BIẾN ĐỔI NĂNG LƯỢNG TRONG ACQUY

 17/08/2018
Đặc tính phóng của acquy


 
      Trong khoảng thời gian phóng từ lúc bắt đầu t = 0 đến thời gian t = tgh , sức điện động, điện áp và nồng độ dung dịch điện phân giảm dần đều, tuy nhiên mức độ giảm chậm, người ta gọi đó là giai đoạn phóng ổn định.
tgh được gọi là khoảng phóng điện giới hạn tương ứng với mỗi chế độ phóng điện của ăc quy (dòng điện phóng), các giá trị EP, UP, Cp tại tgh được gọi là các giá trị phóng điện của ăc quy
      Sau khoảng phóng điện giới hạn cho phép tgh , nếu ta tiếp tục cho acquy phóng điện thì sức điện động, điện áp của acquy giảm rất nhanh. Không nên cho acquy tiếp tục phóng điện khi dung lượng còn dưới 80%
      Thời gian nạp no có tác dụng làm tái sinh bản cực và tái sinh dung dịch điện ly nhờ đó làm tăng dung lượng phóng điện của acquy. Thời gian nạp no cho acquy kéo dài từ 2-3h, trong suốt thời gian đó hiệu điện thế trên các bản cực acquy và nồng độ dung dịch điện phân tăng dần.
      Dung lượng thu được khi acquy phóng điện luôn nhỏ hơn dung lượng cần thiết để nạp no acquy.
      Tự phóng điện là hiện tượng tự giảm điện áp, trọng lượng riêng và năng lượng điện sau một khoảng thời gian nhất định mà không có sự tác động của một mạch điện bên ngoài.

Phương pháp nạp acquy

Phương pháp với dòng điện không đổi:
      Đây là phương pháp nạp cho phép lựa chọn dòng nạp thích hợp với mỗi loại acquy, sử dụng trong các xưởng bảo dưỡng sữa chữa các acquy bị sunfat hoá, cacbonat hóa. Với phương pháp này acquy phải cùng dung lượng định mức, được mắc nối tiếp với nhau và phải thoả mãn điều kiện: 
Un ≥ 2,7 Naq
Un: Điện áp nạp
Naq: Số ngăn ăcquy đơn trong mạch.
      Trong quá trình nạp điện sức điện động của acquy tăng dần lên, để duy trì dòng điện nạp không đổi ta phải bố trí trong mạch biến trở R. Trị số giới hạn của biến trở được xác định theo công thức:
Ảnh
      Phương pháp này có ưu điểm là bảo đảm cho acquy luôn được no, nhược điểm là thời gian nạp kéo dài. Để khắc phục thời gian nạp kéo dài, người ta sử dụng phương pháp nạp với dòng điện thay đổi nhiều nấc.

Phương pháp nạp với điện áp không đổi
      Phương pháp này yêu cầu các acquy mắc song song với nhau. Hiệu điện thế của nguồn nạp không đổi và được tính bằng (2,3-2,5)V cho mỗi ngăn đơn.
      Phương pháp này có ưu điểm là thời gian nạp ngắn, dòng nạp tự động giảm theo thời gian, nhược điểm là acquy không được nạp no, do đó nó chỉ được dùng để nạp bổ sung cho acquy trong quá trình sử dụng.

Phương pháp dòng áp
      Đây là phương pháp tổng hợp của hai phương pháp trên. Nó tận dụng được những ưu điểm và khắc phục được những nhược điểm của mỗi phương pháp.
      Trong khoảng thời gian 8h đầu, dung lượng acquy tương ứng dưới 80%, ta nạp với dòng điện không đổi In = 0,1 Co (đối với acquy chì-axit) hoặc In = 0,2 Co (đối với acquy kiềm Ni-Cd). Sau đó ta nạp với điện áp không đổi đến khi dung dịch sủi bọt đều thì nạp bổ sung tiếp 2-3h
      Khi điện áp trên các bản cực của acquy bằng với điện áp nạp thì lúc đó dòng nạp sẽ tự động giảm về 0, kết thúc quá trình nạp.
Phản hồi của bạn